Những điểm mới cơ bản của luật giáo dục năm 2005
Luật Giáo dục năm 2005 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của Luật Giáo dục năm 1998 đã phát huy tác dụng tích cực, tạo hành lang pháp lý trong tổ chức và hoạt động giáo dục. So với Luật Giáo dục năm 1998, có 110 điều, Luật Giáo dục năm 2005 có 120 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 83 điều về nội dung và 15 điều về kỹ thuật, bỏ bớt 3 điều và viết thêm 13 điều mới. Những nội dung mới được bổ sung bao gồm các quy định nhằm tập trung giải quyết năm nhóm vấn đề:
Một là, hoàn thiện một bước về hệ thống giáo dục quốc dân, khẳng định vị trí của giáo dục thường xuyên, phát triển giáo dục nghề nghiệp theo ba trình độ đào tạo, tăng khả năng liên thông, phân luồng giữa các bộ phận của hệ thống.
Luật quy định thống nhất việc bỏ thi tốt nghiệp tiểu học (đã được xác định tại Nghị quyết số 37 của Quốc hội), học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, được hiệu trưởng nhà trường xác nhận trong học bạ. Luật cũng xác định những trường hợp Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định học sinh có thể học trước tuổi, học vượt lớp, học lưu ban.
Tại Điều 30, Luật quy định cơ sở giáo dục phổ thông bao gồm cả trường phổ thông có nhiều cấp học, vấn đề này xuất phát từ thực tế hiện nay ở một số địa phương đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa khó khăn trong việc tổ chức các trường phổ thông cho tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông riêng biệt, do số lớp học và số học sinh không đủ theo quy định. Vì vậy, trong thực tế đã hình thành những trường phổ thông có nhiều cấp học (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông hoặc tiểu học, trung học…).
Về kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở, theo kết quả phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 cho thấy, có 83 % tán thành phương án bỏ kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở. Học sinh học hết chương trình trung học cơ sở, có đủ điều kiện theo quy định thì được trưởng phòng giáo dục và đào tạo quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp bằng tốt nghiệp trung học cơ sở. (Luật Giáo dục năm 1998 quy định học sinh học hết chương trình THCS theo quy định thì được dự thi và nếu đạt yêu cầu thì được Giám đốc sở giáo dục và Đào tạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp bằng tốt nghiệp THCS). Việc bỏ kỳ thi này góp phần giảm bớt tốn kém cho gia đình, nhà trường và xã hội cũng như tâm lý căng thẳng trong thi cử của học sinh.
Tuy nhiên, thực hiện theo phương án này đòi hỏi vừa phải đổi mới cách học, cách dạy, vừa phải nâng cao trách nhiệm của học sinh, của thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục, của gia đình và chính quyền địa phương. Các cấp quản lý giáo dục cần có sự phối hợp chỉ đạo sát sao việc thực hiện chương trình giáo dục, tổ chức tốt việc kiểm tra hết môn, kiểm tra học kỳ, kiểm tra cuối năm để bảo đảm chất lượng giáo dục ngay trong quá trình dạy và học. Phải tổ chức tốt việc tuyển sinh vào các trường trung học phổ thông, trường trung cấp theo hướng đảm bảo tính nghiêm túc, công bằng, khách quan, tránh gây những căng thẳng quá mức không cần thiết.
Luật Giáo dục năm 2005 quy định dạy nghề đào tạo 3 trình độ: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng; học sinh tốt nghiệp trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng được cấp bằng nghề tương ứng với trình độ đào tạo. Luật quy định giáo dục đại học đào tạo 4 trình độ, trong đó đào tạo trình độ cao đẳng được quy định cụ thể đối với người có bằng tốt nghiệp THPT, trung cấp (gồm trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề) thì thời gian là từ hai đến ba năm (Luật Giáo dục năm 1998 quy định đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong ba năm học); từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành. Quy định về đào tạo trình độ cao đẳng cũng được bổ sung cụ thể đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành (hai năm rưỡi đến bốn năm học) và sửa đổi thời gian đào tạo đối với người có bằng nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành (từ một năm rưỡi đến hai năm học). Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học (Luật Giáo dục năm 1998 quy định thực hiện trong hai năm học). Để đảm bảo việc quy định đối với một số bằng chuyên môn đặc biệt (chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 của ngành y…), Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ tương đương với trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở một số ngành chuyên môn đặc biệt.
Có thể thấy, các quy định được bổ sung trên đây nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho người học tiếp tục nâng cao trình độ nghề nghiệp, đảm bảo phân luồng và liên thông trong hệ thống giáo dục.
Trong Luật, vị trí của giáo dục thường xuyên đã được khẳng định “hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên”. Giáo dục thường xuyên hiện nay có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu thay đổi công nghệ trong sản xuất và đời sống, xây dựng xã hội học tập. Sự thay đổi này đòi hỏi người lao động luôn phải học tập, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, cập nhật kiến thức và hơn nữa học để có thể thay đổi nghề nghiệp theo yêu cầu của cá nhân và xã hội. ở nước ta trong những năm gần đây, giáo dục thường xuyên đã được phát triển nhanh chóng và từng bước đáp ứng nhu cầu học tập cho hàng triệu người có nhu cầu học tập liên tục, học tập suốt đời. ở nhiều nước, giáo dục thường xuyên phát triển rất mạnh, rất đa dạng về mô hình tổ chức và chương trình giảng dạy, học tập, nhằm tạo các điều kiện tốt nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt đời, học tập liên tục của mọi công dân. Giáo dục thường xuyên một mặt vừa là phương thức học tập, mặt khác do nhu cầu phát triển đã trở thành một bộ phận quan trọng bên cạnh giáo dục chính quy trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Cơ sở giáo dục thường xuyên trong Luật Giáo dục năm 2005 được bổ sung thêm trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức tại xã, phường, thị trấn nhằm khẳng định về mặt pháp lý đối với hình thức tổ chức này, vốn đã phát triển rất mạnh mẽ trong mấy năm vừa qua nhằm huy động tiềm năng của cộng đồng để đáp ứng nhu cầu học tập của mọi tầng lớp nhân dân và xây dựng một xã hội học tập. Luật cũng bổ sung quy định trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện giáo dục thường xuyên lấy bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học chỉ được liên kết với cơ sở giáo dục tại địa phương là trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp, trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh với điều kiện cơ sở giáo dục tại địa phương bảo đảm các yêu cầu về cơ sở vật chất, thiết bị và cán bộ quản lý cho việc đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học.
Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, xác định rõ yêu cầu về chương trình giáo dục, về điều kiện thành lập nhà trường, xác định những tiêu chí cơ bản để một trường đại học hoặc viện nghiên cứu được phép đào tạo trình độ tiến sĩ, định hướng về công tác kiểm định chất lượng giáo dục, tạo điều kiện chuyển đổi từ đào tạo theo năm học sang đào tạo theo tích luỹ tín chỉ, tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục.
Do tầm quan trọng của chương trình giáo dục, các nhà làm luật đã thiết kế một điều riêng về chương trình giáo dục ở phần quy định chung, nêu những nguyên tắc và yêu cầu cơ bản về việc xây dựng, thực hiện chương trình giáo dục. ở chương quy định cụ thể về hệ thống giáo dục quốc dân, Luật cũng đã bổ sung một số điều về chương trình giáo dục của từng cấp học và trình độ đào tạo. Các quy định này bảo đảm cơ chế quản lý giáo dục bằng chương trình trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Luật Giáo dục năm 2005 có 1 điều quy định về kiểm định chất lượng giáo dục (Luật Giáo dục năm 1998 chưa quy định về vấn đề này). Kiểm định chất lượng giáo dục là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, kiểm định chất lượng giáo dục là một vấn đề mới, do nước ta chưa có kinh nghiệm từ thực tiễn, vì vậy chỉ có thể quy định về nguyên tắc chung, trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ ban hành những quy định cụ thể để chỉ đạo trong quá trình tổ chức thực hiện và rút kinh nghiệm từ thực tiễn nhằm hoàn chỉnh các văn bản dưới luật, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương này có hiệu quả. Như vậy, yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là phải xây dựng quy trình, tiêu chuẩn đánh giá và triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, nhằm đánh giá, phân loại năng lực, chất lượng của các cơ sở này.
Ba là, nâng cao tính công bằng xã hội trong giáo dục và tăng thêm cơ hội học tập cho nhân dân đặc biệt là cơ hội học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, con em gia đình nghèo.
Luật Giáo dục năm 2005 bổ sung quy định về việc Nhà nước ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách cho các trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật do nhà nước thành lập; có chính sách ưu đãi đối với các trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật do tổ chức, cá nhân thành lập. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, điều kiện và thời hạn vay tiền để người học thuộc gia đình có thu nhập thấp có điều kiện học tập.
Việc sửa đổi Luật lần này đã bổ sung nhiều quy định thể hiện chính sách ưu tiên của nhà nước đối với phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, ví dụ như yêu cầu Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định việc học tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số trước khi vào học lớp 1, hoặc chế độ cử tuyển được sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề cụ thể, theo đó nhấn mạnh Nhà nước dành riêng chỉ tiêu cử tuyển đối với những dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp và có chính sách tạo nguồn tuyển sinh nhằm đào tạo cán bộ cho các vùng này. Việc cử tuyển được giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào nhu cầu địa phương, có trách nhiệm đề xuất chỉ tiêu cử tuyển, phân bổ chỉ tiêu cử tuyển theo ngành nghề phù hợp, cử người đi học cử tuyển theo đúng chỉ tiêu được duyệt và tiêu chuẩn quy định, có trách nhiệm phân công công tác cho người được cử đi học sau khi tốt nghiệp.
Bốn là, tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục, xác định những quy phạm nhằm ngăn ngừa, hạn chế các hành vi tiêu cực, xác định rõ trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, đặc biệt là các trường dạy nghề, các trường trung cấp, cao đẳng và đại học.
Luật Giáo dục năm 2005 bổ sung 2 nội dung quản lý nhà nước về giáo dục bao gồm cả tổ chức quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục; thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục. Bổ sung nội dung quy định việc phân bổ ngân sách thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số.
Để chấn chỉnh kỷ cương trong ngành giáo dục, Luật bổ sung quy định về những việc nhà giáo không được làm nhằm bảo vệ và nâng cao uy tín của nhà giáo cũng như thanh danh nghề dạy học; bổ sung một điều quy định các hành vi đặc thù người học không được làm.
Tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục là yêu cầu cần thiết trong công tác quản lý. Luật Giáo dục năm 2005 xác định cơ sở giáo dục đại học được giao đào tạo ở trình độ nào thì thủ trưởng cơ sở đào tạo đó có trách nhiệm và thẩm quyền cấp văn bằng ở trình độ ấy nhằm góp phần nâng cao trách nhiệm về kết quả đào tạo, tạo điều kiện để xã hội đánh giá đúng sản phẩm giáo dục, cơ quan nhà nước không chịu trách nhiệm thay cho các cơ sở giáo dục về chất lượng đào tạo của chính cơ sở. Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục tập trung thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục, kiểm tra, thanh tra, kiểm định chất lượng giáo dục, ban hành văn bản quản lý và tổ chức thực hiện pháp luật. Điều 42 được bổ sung thêm khoản 2 quy định về điều kiện để cơ sở giáo dục đại học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ. Khi đã được giao nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ thì thủ trưởng cơ sở đào tạo tiến sĩ có thẩm quyền cấp bằng tiến sĩ.
Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường cũng được sửa đổi, bổ sung nội dung về xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá; tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục. Luật cũng khẳng định quyền tự chủ của nhà trường trong việc cấp phát văn bằng, chứng chỉ; tuyển dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên, tham gia vào quá trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với nhà giáo, cán bộ, nhân viên.
Năm là, khuyến khích đầu tư phát triển trường ngoài công lập, tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng hoạt động của các trường dân lập, tư thục.
Luật Giáo dục năm 2005 quy định nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các loại hình: công lập, dân lập, tư thục (không duy trì loại hình bán công). Khái niệm trường dân lập, tư thục được thể hiện rõ trong Luật: Trường dân lập là trường do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động; trường tư thục là trường do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Luật Giáo dục 2005 có thêm 1 mục mới tại chương III (gồm các điều 65, 66, 67 và 68) quy định cụ thể về các chính sách đối với trường dân lập, tư thục bao gồm: nhiệm vụ và quyền hạn của trường dân lập, tư thục, chế độ tài chính quyền sở hữu tài sản, rút vốn và chuyển nhượng vốn, chính sách ưu đãi. Khẳng định trong Luật “tài chính, tài sản của trường tư thục thuộc sở hữu của các thành viên góp vốn”, đặt vấn đề “rút vốn, chuyển nhượng vốn đối với trường tư thục” là tư duy mới của các nhà làm luật, điều này khắc phục một điểm yếu bấy lâu nay trong chính sách xã hội hoá giáo dục là chưa quy định rành mạch về sở hữu của các cơ sở ngoài công lập, dẫn đến tâm lý e ngại của các nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo.
Trên đây là những điểm mới cơ bản đã được sửa đổi, bổ sung trong Luật Giáo dục năm 2005. Các nội dung này sẽ được hướng dẫn và sửa đổi, bổ sung trong các văn bản dưới Luật để phù hợp với các quy định mới của Luật, nhằm hoàn thiện các quy định về hoạt động giáo dục tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển giáo dục trong tình hình hiện nay.
PGS.TS Chu Hồng Thanh (Vụ trưởng Vụ Pháp chế -Bộ GD&ĐT)